Chúa và các tông
đồ đi quanh lối Ðền thờ, xuống một thang dài bằng đá, leo qua chiếc cầu gỗ
bắc trên thung lũng Cédron, tiến lên núi Cây Dầu, rồi vào một khu vườn có
tường vây, gọi là Gethsemane. Ðây là nơi Ngài quen đến
nghỉ và cầu nguyện. Khu vườn này rộng mỗi bề chừng 60 thước, trong có nhiều
cây dầu, cây lãm và một máy ép dầu. Bên cạnh vườn có một hang khoét sâu vào
hang núi. Ðến trước cửa hang, Ngài bảo các tông đồ rằng :
--Các
con hãy ở lại đây, để Thầy đến nơi kia cầu nguyện.
Nói xong, Ngài để
các tông đồ ở lại và chỉ đưa ba ông đi theo. Ðó là các ông Phêrô, Giacôbê và
Gioan.
Bốn thầy trò vừa
đi vừa chuyện vãn, lúc nhỏ lúc to, câu chuyện nhuốm một vẻ buồn của những
người sắp gặp nguy trên đường mạo hiểm. Rồi nét mặt Ngài đổi sắc, Ngài vốn
không sợ bao giờ, nhưng bấy giờ cả thân Ngài run rẩy, biểu lộ một sự khiếp
sợ, khổ cực và sầu phiền vô hạn. Ngài than thở với ba môn đệ :
--Linh hồn Thầy buồn rầu quá, buồn rầu đến chết
được. Các con ơi ! Ðừng xa Thầy, các con hãy cầu nguyện với Thầy, để các con
tỉnh thức với Thầy và không nản chí.

Ngài nói như ngõ ý
cần một bạn thân bên cạnh để an ủi trong giờ sợ hãi, nhưng rồi Ngài bảo ba
ông ngồi nghỉ dưới gốc cây, và một mình Ngài tiến đến chỗ có tảng đá to, cách xa nơi ba môn đệ bằng ném một
hòn đá. Ở đó dưới ánh trăng khuya, ba ông xem rõ cử chỉ và nghe rõ tiếng của
Ngài .Ngài quỳ gối mặt phủ phục sát tảng đá, và
dáng điệu như e ngại một sự gì. Ngài cầu nguyện :
--Lạy Cha. Cha làm được mọi sự. Nếu đẹp ý Cha, xin Cha
hãy cất chén đắng này xa Con. Nhưng xin Cha đừng theo ý Con, một theo ý Cha. !
Ngài cầu khẩn Ðức Chúa
Cha cất khỏi Ngài cái giờ khủng khiếp mà Ngài cảm thấy sắp đến, vì bấy giờ
tâm hồn Ngài sầu buồn không thể tả, Ngài cảm thấy cô đơn, cay đắng, khiếp sợ,
lo âu. Tất cả tội lỗi từ Adam cho đến người chót hết trong nhân loại, tất cả
những tệ bạc vong ân, từ sự phản bội đen tối của Giuđa, tất cả những khổ tâm
của Ðức Mẹ cùng cái chết nhục nhã Ngài sẽ phải chịu.....Tất cả những thống
khổ đó đã thành một khối lớn, chất nặng trên tâm hồn Ngài, khiến Ngài đau đớn
tê mê, con tim Ngài nghẹt thở, thân thể Ngài run giật. Ngài đã biến thành nạn
nhân của phiền sầu và đau thương ! Nhưng chưa hết, bể sầu càng dâng lên mạnh,
tràn ngập khắp tâm hồn Ngài, và mũi kim khổ não mỗi lúc càng đâm sâu khiến cơ
thể lẫn trái tim của Ngài ngất ngư như người hấp hối chết, và một trạng thái
hữu hãn của người phải sầu phiền tới cực độ xảy ra : Từng giọt máu trong mình
Ngài lẫn với mồ hôi lướt mướt chảy quanh mình! Quả thực, nhân tính trong
Ngài đã phải qua một thử thách gắt gao ; Thân thể bị đau khổ dày vò, tinh
thần bị khiếp sợ và sầu phiền quá sức. Trong giờ thê lương thảm đạm ấy, Ngài
sấp mình cầu nguyện hay ngửa mặt lên trời nhìn, cũng chỉ thấy một mình trơ
trọi giữa mảnh vườn tịch mịch giá lạnh. Nét mặt ủ dột đang cầu nguyện, Ngài
bỏ dở thất thểu đi tìm ba môn đệ ở gần, để xin một lời an ủi. Nhưng ba ông đã
ngủ say. Ngài lay động ông Phêrô nói :
--Simôn ! Con ngủ thế ư ? Con không thể tỉnh thức được
một giờ sao ?
Ba cái xác liền
động cựa, tỉnh giấc một chút, Ngài lại bảo các ông :
--Hỡi
các con! Hãy tỉnh thức và cầu nguyện kẻo sa chước cám dỗ. Các con biết: Hứa
dễ mà làm chẳng dễ đâu. Tâm thần mau lẹ nhưng xác thịt yếu đuối !
Biết rõ không mong
gì được môn đệ giúp đỡ hay an ủi, Ngài lại trở về chỗ cũ. Tảng đá đã lạnh
càng lạnh thêm, chung quanh gió lạnh vi vu thổi. Khiếp sợ và sầu phiền chưa
buông tha Ngài, nhưng càng ức hại và cấu xé thêm. Ngài lại phủ phục với điệu
bộ sầu phiền kinh sợ và cầu nguyện cũng một lần như trước, nhưng luôn luôn
kính phục ý Ðức Chúa Cha :
- Lạy Cha
! Nếu không qua khỏi được, mà Con phải uống chén đắng, thì xin vâng ý Cha
Cầu nguyện xong,
Ngài trở lại với ba tông đồ, nhưng Ngài thấy các ông vẫn ngủ. Ngài đánh thức
các ông, nhưng các ông không buồn dậy, con mắt các ông đã nặng quá. Các ông
cũng luống cuống chẳng biết thưa lại với Ngài làm sao. Thấy vậy, Ngài bỏ các
ông, lại một mình đi cầu nguyện, than thở với Ðức Chúa Cha cũng một lời như
hai lần trước. Và lần này, một sứ thần từ trời hiện xuống ủy lạo.

Trong suốt một đời, Ngài
chỉ cần xin nhân loại giúp đỡ và an ủi có một lần thôi. Nhưng lời xin của Ngài đã chẳng được
nhân loại chấp thuận, không thể cậy nhờ vào nhân loại nữa, giờ đây Ngài để
cho Thiên thần an ủi, và cảm thấy trong mình một nghị lực bùng nổi dậy....
Ngài đã vui nhận hết mọi hy sinh, hết mọi nhuốc hổ, hết mọi cực hình. Ngài đã
thắng mọi cám dỗ của quỷ ma, đã chế ngự mọi khiếp sợ và sầu phiền. Trước kia
ngần ngại bao nhiêu, bây giờ hăng hái bấy nhiêu. Ngài có thái độ một chiến sĩ
hăng hái nhảy lên võ đài chiến đấu.
Vui sướng vì giờ hy sinh
đã sắp điểm. Ngài đứng dậy và lần thứ ba trở lại với các tông đồ. Thấy các
ông còn ngủ, Ngài nói to để lộ một chút mỉa mai :
--Bây giờ các con cứ ngủ yên. Việc đã muộn rồi. Không
cần tỉnh thức và cầu nguyện nữa.
Tuy nhiên chưa
tỉnh hẳn, các ông vẫn còn ngái ngáp, Ngài buộc lòng phải lay tỉnh và nói rõ
với các ông :
--Ðã đến
giờ rồi. Trong giây lát nữa, Con Người sẽ bị nộp vào tay kẻ ác. Nào, đứng dậy
chúng ta cùng đi. Kìa kẻ nộp Thầy đã đến gần.
Nói xong Ngài vội
đến đánh thức các tông đồ khác với cùng một tin sét đánh như trên
“ Nào chỗi
dậy, Con người sẽ bị nộp, kìa kẻ nộp Thầy đã đến.!”
THẦY BỊ BẮT, TÔNG ĐỒ CHẠY TÁN LOẠN
Nghe tiếng Chúa
gọi khẩn cấp và tin Ngài bị nộp, các tông đồ hốt hoảng vội nhổm dậy nhìn ngơ
ngác, có ông tưởng mình đang chiêm bao. Ðồng thời, từ ngoài cổng vườn lấp
loáng bóng một đoàn người cầm đuốc và gươm giáo, gậy, thừng, xô xấn kéo nhau
vào, đi đầu dẫn lối là Giuđa.
Giuđa một tông đồ phản bội !
Ngay từ chiều tối
trong tiệc lễ Vượt Qua, Giuđa đã bực tức lắm. Y điên lên vì mặt nạ của mình
bị hạ, mưu mô của mình bị phát giác, nên bỏ phòng tiệc đi ra, y đã rình xem
Ngài sẽ đi lối nào rồi về nghỉ ở đâu. Tới khi biết rõ theo như thường lệ. Ngài
đưa các tông đồ đến cầu nguyện ở vườn Giết-si-ma-ni. Y liền đi báo cho các
Trưởng tế cùng Biệt Phái, và đích thân dẫn người đến bắt Chúa, Ðấng hằng yêu
thương y.
Ðược tin báo, bọn
Trưởng tế và Biệt Phái mừng như người trút được gánh nặng. Nhưng họ cho là
việc hệ trọng, vì bắt ai chứ bắt Giêsu không phải là dễ. Ngài có thể đánh quỵ
một trăm quân dễ hơn phục sinh một người đã chết ; Ngài có cả một đoàn sứ đồ
nồng nhiệt và nhiều người khác ở chung quanh ; sức kháng cự bằng võ lực có
thể xảy đến. Và nữa, ngay trong đêm trăng sáng tỏ, Ngài cũng có thể chạy
thoát một cách rất tài. Bởi thế, họ đề phòng rất cẩn thận. Một mặt họ ra lệnh
cho viên đội trưởng cảnh binh Ðền thờ phải đem quân cùng một số đông người
cầm gươm giáo, dây thừng và đuốc đi theo Giuđa đến nơi đã hẹn. Một mặt khác,
họ xin viên võ quan trong đạo quân La Mã đang đóng ở gần đồn Antônia, theo
như lời ông đã hứa trước, đem quân võ trang tử tế đi vây các ngã quanh vườn
Cây Dầu, để đề phòng kẻo Ngài trốn chạy, và để đối phó với bất cứ một phản
lực chống chọi nào sẽ xảy ra. Thêm vào hai việc cẩn bị đó, Giuđa còn sợ hoặc
sẽ bắt lầm ; Thay vì bắt Ngài lại bắt một đệ khác. Nên y dặn kỹ lưỡng những
cảnh binh có công tác bắt Ngài nhận ám hiệu sau đây : “Hễ tôi hôn ai, các ông
hãy bắt chính người đó và phải điệu đi rất cẩn thận.”
Giuđa và toán
người mang gươm giáo đã vào vườn qua những lối quặt của hàng cây Dầu rườm rà
và khúc khuỷu. Tiếng bước chân xen với tiếng khí giới. Ánh đuốc đỏ lòm trộn
với ánh trăng trong, mấy rặng cây đen nghịt trở nên xám nhợt rồi pha màu nâu
xẫm. Giuđa xông xáo như kiểu người quen đường đã từ lâu, mắt giáng thẳng về
phía trước, thỉnh thoảng quay nhìn trộm về đàng sau, để xem họ có theo đúng
lối hay có để ý đến những cử chỉ nhỏ mọn nhưng quan hệ của mình không. Hắn đã
đi qua các tông đồ và đến gần Chúa với dáng điệu rất tự nhiên. Nhưng hắn nói
tiếng “Chào Thầy” cách ấm ớ, và hôn Ngài cách ít tự nhiên.
Nhận rõ kẻ phản
bội nộp Thầy chính là Giuđa, các tông đồ đều kinh ngạc, đứng sững một hồi như
tượng đá. Nhưng trước cử chỉ độc ác của Giuđa, Chúa vẫn giữ nét mặt hiền từ
và bình tĩnh. Rồi với một liếc nhìn đau đớn tựa như lưỡi gươm thâu tận đáy
lòng Giuđa, Ngài lại bảo hắn một câu mắng nhẹ :
Hỡi
người tâm phúc của Ta ! Bạn mượn cái hôn để nộp Con Người ư ?
Dường như Ngài
muốn cảnh cáo : Phản bội là tội rất nặng, nhưng mượn hình thức yêu đương là
hôn Ngài để phản bội càng là tội nặng hơn. Song lòng Giuđa đã tối tăm và chai
đá. Hắn không biết cảm động nữa. Hôn Ngài xong, hắn lùi ra cho quân lính đến
bắt Ngài. Theo ám hiệu Giuđa đã dặn, mấy tên quân xô đến bắt Chúa. Nhưng muốn
giác ngộ chúng và những kẻ sai chúng biết ; không ai có quyền được hại Ngài,
trừ khi Ngài cho phép và tự ý nộp mình, Chúa nhìn thẳng vào mặt chúng và hỏi
:
--Các
người tìm ai ?
Chúng kêu la :
--Chúng
ta tìm Giêsu Nazareth.
Ngài dõng dạc phán
:
--Ta đây !
Nghe Ngài tuyên bố
bất ngờ và oai nghi đó, chúng run sợ lùi lại ngã xuống đất.
Ngài lại hỏi :
--Các
ngươi tìm ai ?
Vừa chỗi dậy, vừa
thẹn và bực vì đã sợ, chúng thưa :
--Chúng
ta tìm Giêsu Nazareth.
Ngài phán :
--Ta đã nói ; Chính Ta đây. Nhưng nếu các ngươi tìm Ta,
các ngươi hãy để những người này đi vô sự.
Miệng nói, tay
Ngài chỉ vào đoàn tông đồ đang sợ hãi. Ngài muốn bảo vệ các ông, không để một
ai bị bắt trong đêm nay, để ứng nghiệm lời Ngài mới nói trong bữa Tiệc Ly :
Lạy Cha, Con không để mất một ai trong số những người Cha ủy thác cho Con.
Nghe Chúa nói oai nghi
tới nỗi làm quân lính run rùng mình và ngã ngữa, các tông đồ bớt sợ. Rồi máu
nóng của người Galilêa lại hăng lên. Sẵn có hai thanh gươm sắc bén, ông Phêrô cầm lấy một, tiến đến
bên Chúa nói : “Lạy Thầy, chúng bắt Thầy ư ? Xin phép Thầy con chém.”Rồi
không cần đợi Chúa trả lời, ông tuốt gươm, giơ cao tay chém mạnh xuống trên
đầu một đầy tớ thầy Thượng tế có vẻ hỗn láo nhất, tên là Manchu. Nhưng
y kịp tránh và chỉ bị cụt tai bên phải.
Ðó là cử chỉ khởi cuộc
đánh lộn. Nhưng Chúa không muốn dùng võ lực để bảo vệ Ngài, và biết các tông
đồ sẽ thất trận, vì đối phương nhiều người, lại có quân La Mã vây chung quanh
vườn đã sẵn sàng hộ chiến. Ngài bảo ông Phêrô :
--Hỡi
Phêrô, hãy xỏ gươm vào vỏ, vì ai cầm gươm sẽ chết vì gươm. Hay con nghĩ Thầy
không xin được Cha Thầy sai ngay đến cho Thầy hơn mười hai cơ binh sứ thần ư
? Nhưng nếu vậy, còn ứng nghiệm sao được lời Thánh Kinh ? Và chén đắng Cha
Thầy đã dọn, Thầy lại khước từ ư ? Thôi, hãy để công việc đi theo chiều của
nó.
Nói đoạn, Ngài để
tay vào tai người bị cụt, và chữa cho y, Ngài còn oai nghi phán bảo những kẻ
đến bắt Ngài, tức là Trưởng tế, các kỳ lão và các Ðội trưởng của Ðền thờ :
--Các
ngươi cầm gươm gậy kéo đến bắt Ta như bắt một tên đạo tặc ? Hằng ngày Ta ở
giữa các ngươi, giảng dạy trong Ðền thờ mà sao các ngươi không bắt ? Nhưng
thôi, giờ đây là giờ của các ngươi và công việc phải xảy ra để ứng nghiệm lời
các tiên tri đã chép.
Chúa phán
tới đây, các tông đồ hoảng sợ ; trái lại bọn Trưởng tế, kỳ lão, đội trưởng và
quân lính có cảm giác như nắm chắc được mồi chúng săn tìm từ lâu, chúng sấn
vào bắt và trói Ngài. Các tông đồ bỏ chạy tán loạn qua các ngách cây và một
mình Chúa bị quân ác độc điệu đi một cách sỉ nhục giữa tiếng cười hả hê của
bọn chúng.
Quả thực Ánh Sáng
của thế gian đã bị điệu đi sau ánh mờ của mấy bó đuốc, và Ðấng Từ Bi bị quân
hung đồ đem đi ức nhục ! Trong giờ lâm nạn, Thầy chí thánh chẳng có ai theo !
Các môn đồ đã bỏ trốn hết. Thậm chí có chàng thanh niên, nghe tiếng náo động
trong đêm trường vội khoác tấm áo mỏng, rón rén bước theo Ngài từ xa để biết
rõ chuyện, cũng bị quân hung tàn đuổi bắt, khiến chàng phải trút áo lại, chạy
hết tốc lực để thoát thân .
|
Không có nhận xét nào:
Đăng nhận xét